Cai trị Lê_Nhân_Tông

Thái hậu nhiếp chính

Tiền Đại Hòa thời Lê Nhân Tông.

Lúc đó ông mới lên 1 tuổi, Thần phi Nguyễn Thị Anh được tôn làm Hoàng thái hậu, buông rèm nghe chính sự. Sử sách gọi là Tuyên Từ Hoàng thái hậu. Hoàng thái hậu dùng phép sẵn có từ đời trước, được các huân hựu đại thần như Lê Khả, Lê Thụ, Lê Liệt,... phò tá nên trong khoảng hơn 10 năm, nước Đại Việt bình yên. Ngày 2 tháng 2 âm lịch năm 1443, thái hậu thay mặt Nhân Tông xuống chiếu cầu lời nói thẳng từ đại thần và nhân dân để giúp vua giữ yên đất nước:[1]

Mới rồi trời hiện điềm tai biến như sao sa, động đất. Trẫm rất lo sợ, suy nghĩ nguyên nhân tai biến, không biết bởi đâu. Có phải vì trẫm mới cầm quyền, chưa biết giảm nhẹ lao dịch thuế khóa, có điều không lợi cho dân không? Hay là phụ quốc đại thần điều hòa trái lẽ nên khí âm dương không hài hòa mà đến thế chăng? Hay là việc ngục tụng không công bằng, hối lộ công khai, xử án còn nhiều oan uổng mà đến nỗi thế chăng? Hay là chức thú lệnh chưa được người giỏi, làm bừa trái phép, nhiễu hại dân chúng mà đến nỗi thế chăng? Hay là bọn cung nữ oán hờn chưa thả chúng ra nên hại tới hòa khí mà đến nỗi thế chăng? Có phải là bọn gièm pha âm mưu xảo quyệt, để công thần chịu oan khuất chưa được rửa oan mà đến nỗi thế chăng? Hay là vì bày việc thổ mộc, xây dựng cung điện chăng? Kẻ tiểu nhân được tiến dùng, còn người quân tử phải lui ẩn chăng? Đường nói năng bịt kín mà ơn trên bị che lấp chăng. Bọn phi tần lộng hành mà cửa sau bỏ ngỏ chăng. Lệnh cho khắp quan lại, quân dân, đều phải hết lòng bày tỏ những điều có thể xoay được lòng trời, dập hết tai biến, hãy thẳng thắn nói ra, chớ nên ẩn giấu, để giúp trẫm sửa những điều thiếu sót.

Không lâu sau khi vua Lê Nhân Tông lên ngôi, tháng 5 âm lịch năm 1444, vua Chiêm Thành là Ma Ha Bí Cai[2] dẫn quân vào đánh Hóa Châu. Triều đình cử Nhập nội Kiểm hiệu Thái bảo Lê Bôi, Tổng quản Lê Khả mang 10 vạn quân đánh bại Chiêm Thành. Đến tháng 4 âm lịch năm 1445, quân Chiêm đánh vào thành An Dung của Hóa Châu, nhưng cũng bị thua.[4][5] Mùa xuân năm 1446, Thái hậu thấy Chiêm Thành nhiều lần "dốc quân cả nước vào cướp", nên sai Nhập nội Đô đốc bình chương Lê Thụ, Lê Khả và Thiếu phó Lê Khắc Phục dẫn 60 vạn quân chinh phạt Chiêm Thành. Đồng thời triều đình cử Đồng tri Thẩm hình viện sự Trình Chân, Chuyển vận sứ huyện Thanh Oai Nguyễn Đình Mỹ sang nước Minh báo việc Chiêm Thành lấn cướp. Trên mặt trận, quân Đại Việt liên tiếp thắng lợi, đánh chiếm quốc đô Đồ Bàn, bắt sống Bí Cai cùng nhiều tướng tá, thủ lĩnh bộ tộc, cung nữ và khí giới đem về Đông Kinh. Cháu gọi Bí Cai bằng cậu là Ma Ha Quý Lai sai các bồi thần Chế Cữu, Ma Thúc và Bà Bị dâng biểu xin thần phục Đại Việt, được lập làm vua mới của Chiêm.[1] Sau này khi Trung Quốc nhận tin Đại Việt đánh thắng Chiêm Thành, Hoàng đế Trung Quốc Minh Anh Tông đã hạ chiếu đòi Lê Nhân Tông thả Bí Cai về nước, nhưng triều đình Việt phớt lờ.[6]

Tháng 7 âm lịch năm 1448, nước Bồn Man (盆蠻) dâng hai con voi, xin nội thuộc vào Đại Việt. Triều đình sáp nhập Bồn Man, đổi làm châu Quy Hợp (歸合).[1][7]

Cuối năm 1448, triều đình mở khoa thi Hội tuyển nhân tài làm quan. Khoa này có hơn 750 sĩ tử tham gia, trong đó 27 người được chấm đỗ. Sau đó triều đình tiếp tục cho thi Đình; nhà vua ra điện Tập Hiền, ban đề văn sách hỏi về lễ nhạc, hành chính, cuối cùng chọn được 3 đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Nguyễn Nghiêu Tư, Trịnh Thiết TrườngChu Thiêm Uy), 12 đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân và 12 đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.[1][8]

Năm 1449, triều đình định lại phép thi lại điển. Trước đấy người thi lại điển chỉ cần thi ám tả, viết và toán, ai thi trúng sẽ được tuyển vào các cục. Đến thời Nhân Tông, các đại thần thấy thể lệ này khiến quá nhiều người thi đỗ, nên quy định "cho thi ám tả và nghĩa của bản kinhTứ thư mỗi thứ một bài, cho đề thi trái với những điều đã học"; do vậy, kỳ thi lại điển năm 1449 chỉ có 85 người thi đỗ. Từ đây bắt đầu lệ thi lại điển bằng ám tả và Tứ thư, Ngũ kinh.[1][9]

Tháng 2 âm lịch năm 1449, triều đình sai Tư khấu Lê Khắc Phục đôn đốc cục Bách tác và các quân vệ Thiên Quan, Tứ sương phối hợp với quân dân trấn Thái Nguyên đào sông Bình Lỗ dài 25.000 trượng, trải từ Lãnh Kinh (gần Đáp Cầu, tỉnh Hà Bắc ngày nay) tới cầu Phù Lỗ (nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội), mang lại thuận lợi cho việc giao thông vận tải.[7]

Tháng 3 âm lịch năm 1449, vua Chiêm Quý Lai bị em là Quý Do cướp ngôi. Quý Do sai sứ sang triều cống Đại Việt, nhưng triều đình từ chối không tiếp nhận lễ vật và phán: "Tôi giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, trẫm không nhận đồ dâng". Sứ Chiêm phải mang trả lại lễ vật về nước. Tiếp đó Thái hậu sai Đồng tri Hữu Tri sự Nguyễn Hữu Quang, Điện trung thị Ngự sử Trình Ngự đem thư sang Chiêm Thành, với nội dung như sau: "Sự thực của các ngươi như thế nào thì phải sang trình bày cho rõ"[1][9].

Tháng 7 âm lịch năm 1449, triều đình đổi tên, chia lại một số hiệu quân: quân Hỏa đồng được đổi làm quân Thần lôi và Thần điện; quân Thiện trạo đổi làm các quân Hải hồng, Hải mã, Hải kinh, Hải thu; hiệu quân Bát náo đổi làm quân Hải cốt.[1]

Tháng 11 âm lịch năm 1449, triều đình ban hành 14 điều luật về điền sản, đưa vào bộ hình luật.[1]

Ngày 26 tháng 7 âm lịch năm 1451, Thái hậu xử tử Thái úy Lê Khả và Tư khấu Lê Khắc Phục, người đương thời cho rằng hai người bị oan.[1][7]

Đích thân chấp chính

Tháng 11 âm lịch năm 1453, Hoàng đế lên 12 tuổi, có thể tự coi chính sự, Tuyên Từ Thái hậu trả lại quyền chính cho Hoàng đế rồi lui về ở cung riêng. Khi tự mình ra coi chính sự, Hoàng đế xuống lệnh đại xá, và đổi niên hiệu là Diên Ninh (延寧). Năm 1454 trở thành năm Diên Ninh thứ nhất.[1]

Lê Nhân Tông tỏ ra độ lượng với các công thần khai quốc có tội bị xử tử trước đây, từ thời Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông đến khi Tuyên Từ Hoàng thái hậu chấp chính. Ngay khi ra cầm chính sự, Nhân Tông ra nhiều chiếu chỉ biểu dương công lao của họ, hoặc trả lại của cải, ruộng đất cho con cháu họ. Nhân Tông khôi phục lại quan tước và ban cho con cháu Trịnh Khả (bị xử tử năm 1451) 100 mẫu ruộng; cấp 100 mẫu ruộng cho con cháu Lê SátLê Ngân (bị xử tử năm 1437); trả lại điền sản trước đây cho con cháu Phạm Văn Xảo (bị xử tử năm 1430) và Trần Nguyên Hãn (bị xử tử năm 1429). Nhân Tông biểu dương công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi (bị xử tử năm 1442): Nguyễn Trãi là người trung thành giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản triều không ai sánh bằng. Tuy nhiên, Nhân Tông vẫn chưa minh oan cho Nguyễn Trãi, điều mà Lê Thánh Tông đã làm sau này.

Theo phỏng đoán của một số sử gia hiện đại, điều đó liên quan tới nỗi oan khuất của Nguyễn Trãi trong vụ án Lệ Chi Viên mà chính Tuyên Từ Thái hậu là thủ phạm sát hại Thái Tông để giấu thân thế của Nhân Tông;[10] lời dị nghị của mọi người ngày càng nhiều khiến Nhân Tông phần nào nhận ra thân thế của mình.[10] Bản thân Nhân Tông cũng ở vào thế khó xử khi phải phân biệt đúng sai rành mạch.[10]

Lê Nhân Tông còn tăng chức 1 bậc cho các công thần đã hy sinh thời khởi nghĩa Lam Sơn như Đinh LễLý Triện.[1] Đây từng là hai tướng giỏi nhất trong đội nghĩa binh của Lê Thái Tổ, đánh tan quân Minh ở Tốt Động-Chúc Động (1426) và vây thành Đông Quan nhưng sau bị đánh úp giết chết (1427).[11]

Trong các năm 1452, 1458, vua Nhân Tông tổ chức thi Hội, nhưng không thi Đình như ở năm 1448.[1][8]

Năm Quý Hợi (1455), vua Lê Nhân Tông sai Quốc tử giám Bác sĩ Phan Phu Tiên soạn bộ quốc sử cũng mang tên Đại Việt sử ký (Phan Phu Tiên), viết tiếp quyển thời TrầnĐại Việt sử ký (Lê Văn Hưu), bắt đầu từ Trần Thái Tông cho đến khi Lê Thái Tổ đánh bại hoàn toàn quân Minh xâm lược.[1]

Ngoài ra, Hoàng đế cũng ban hành nhiều chỉ dụ khuyến khích sản xuất, miễn giảm thuế khóa; ông căn dặn các quan trấn, lộ, phủ, huyện "phải bảo dân gắng sức làm ruộng, xử án phải cho công bằng, nếu có trộm cướp, phải hết lòng lùng bắt", các đại thần võ tướng như Nhập nội Tư đồ bình chương sự Lê Hiêu, Nhập nội Đô đốc bình chương sự Lê Lựu phải "trông coi các việc giữ vững thành trì, ngày đêm nghiêm ngặt, tuần phòng trong ngoài theo đúng phép", còn quan coi lăng tẩm ở Tây Kinh (hay Lam Kinh – đất tổ và cũng là kinh đô thứ hai của Hoàng triều Lê) làm mọi việc "phải thành kính, tinh khiết như ngã cây, chặt che, kiếm củi". Hoàng đế còn xuống chiếu cứu giúp những kẻ không vợ, góa chồng, mồ côi, cô đơn và biểu dương những người chồng nghĩa khí, người vợ trinh tiết.[1][12]